Thứ Hai, 24 tháng 5, 2010

THO DIEU PHAP LIEN HOA TOAN TAP


MusicPlaylistRingtones
Create a playlist at MixPod.com

Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2009

DIEU- PHAP- LIEN- HOA- PHẨM TUA -

Dùng Trí để hiển Trí không gì hơn là dùng kinh để hiển kinh.
Pháp Hoa là Ðại Bát Nhã, là Ðại Niết Bàn, là Hoa Nghiêm, là Lăng Nghiêm, là Lăng Già, là Duy Thức, là ý Phật, là lời Tổ...
Một kinh là nghìn kinh, nghìn kinh vào một dòng, vốn đã tự đầy đủ.
Pháp tử thẹn tài hèn, đức mỏng đã không thể diễn bày đến được
chỗ tận cùng vốn tự đầy đủ kia.
Muôn thân con trong bầu pháp giới đồng hư không quy mạng đảnh lễ mười phương chư Phật, chư Hiền Thánh, nhất tâm sám hối.
Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tá
1। Phẩm Tựa





1. Phẩm Tựa

Thành Vương Xá đất vui mừng chấn động
Trời mưa hoa sen báu trải non xanh
Tướng bạch hào suốt sáu nẻo vô minh
Chư Bồ tát, thiên, nhân quỳ dưới bệ.
Nhập tam muội trang nghiêm Vô Lượng Nghĩa
Diệu pháp âm vang động đến muôn loài
Thấy hằng muôn chư Phật cõi trời, người
Hiện thân tướng đắp y vàng chuyển pháp
Lại thị hiện Niết Bàn, xây bảo tháp
Như ngàn xưa và mãi đến ngàn sau
Nước một dòng xuôi chảy chẳng về đâu
Nhất pháp giới - diệu tâm bình đẳng trí
Chỉ một Tâm, cách chia vô tận ý
Vạn trùng ba, động tịnh thánh khác phàm
Thể chung đồng, lưu chuyển một dòng tâm
Thoắt nhìn lại, dưới chân là đất Phật.

Lòng chiêm ngưỡng Thế Tôn, ngài Di Lặc
Cũng như lòng đại chúng khởi sinh nghi
Lại nghĩ rằng: quá khứ đã từng khi
Pháp Vương Tử cúng dường vô số Phật
Liền nói kệ: Ðại-Văn-Thù-Sư-Lợi
Xin lời ngài hóa giải mối nghi nan
Gió đưa hương, cây ướp nụ chiên đàn
Hoa trổ ngọc, thơm vàng từng sớ đất
Hào quang hiện như hằng muôn ức Phật
Muôn chúng sinh từ cõi nước A Tỳ
Trên cõi trời hữu đảnh đến và đi
Sống và chết cùng nghiệp duyên lành dữ
Ðấng Thánh Chúa - tiếng trầm hùng sư tử
Diễn pháp âm tuyên nói nghĩa nhân duyên
Dùng hằng muôn phương tiện dạy nhân, thiên
Chư thánh chúng, Thanh Văn và Duyên Giác
Tôi lại thấy như hằng sa Bồ Tát
Cầu Phật thừa bố thí cả châu thân
Quên vợ con, ngôi báu, ngọc nghìn cân
Bỏ râu tóc, mặc pháp y cầu đạo
Thấy Bồ Tát một mình vui lan nhã
Hoặc núi sâu, rừng vắng thọ trì kinh
Hoặc thấy người ly dục bỏ trọng khinh
Vào thiền định đắc ngũ thông như ý
Tôi lại thấy lại nghe muôn pháp vị
Dòng kinh thơ xưng tụng đấng Pháp Vương
Tay sen hồng nở búp lạy mười phương
Trí nhật nguyệt, lòng Từ như biển rộng
Vui nói pháp, lời kinh vang điệu trống
Lực đại hùng phá dẹp lũ ma quân
Hoặc tọa thiền, cung kính những Trời, Rồng
Vào địa ngục phóng hào quang đưa lối
Tôi lại thấy người uy nghi tịnh giới
Ðang kinh hành chậm rải, lá hoa tươi
Lòng thênh thang trên mỗi bước chân vui
Trí nhẫn nhục hằng cầu vô thượng đạo
Thấy người trí như muôn vàn trân bảo
Luôn cúng dường, gần gủi, nhiếp tâm tu
Lòng xa lìa vướng bận oán ân sâu
Từ muôn ức nghìn năm không loạn động
Tôi lại thấy người cúng dường y phục
Hoặc giường nằm, nhà báu gỗ chiên đàn
Cây bốn mùa kết trái cúng dường Tăng
Suối thơm mát, ao hồ xanh nước tịnh
Như tiếng chạm của muôn vàn ngọc bích
Như âm vang cùng tiếng gió đưa theo
Trên lá kinh vi diệu, bậc tỳ khiêu
Ðang thuyết giảng mở khai lòng sanh chúng
Tôi lại thấy người chứng như-thật-tướng
Pháp-không-hai, nghìn thế giới cũng đồng
Trí vô biên, muôn pháp một trời Không
Xa mê đắm, cầu pháp vô thượng ý
Dựng tháp báu, màn châu buông lụa quý
Trời dâng hoa, người tấu nhạc cúng dường
Kết tinh anh xá lợi, dấu Từ Tôn
Như đóa ngọc trên mâm vàng cung kính
Thấy cõi nước như hoa trời mở cánh
Xanh mầm cây, Phật lực phóng hào quang
Ngài Văn Thù! Xin giải mối nghi nan
Pháp vi diệu hay là lời thọ ký?
Ngài Văn Thù: Như chỗ ta xét nghĩ
Ðã từng phen chư Phật phóng hào quang
Ðã từng phen như mưa pháp đưa sang
Như vô lượng A tăng kỳ thiện kiếp
Như mưa pháp đến đi mà chẳng mất
Như trống trời vang cõi nước vô thinh
Phật hiệu là Ðức Nhật Nguyệt Ðăng Minh
Thuyết chánh pháp y sở cầu tùy thuận
Nói tứ đế vì Thanh Văn thánh chúng
Nói nhân duyên vì Duyên Giác Bích Chi
Bồ Tát thừa, nói lục độ diệu vi
Một pháp giới, một phổ-quang-như-trí
Và như vậy, đến hai muôn đức Phật
Cũng đồng tên là Nhật Nguyệt Ðăng Minh
Ðầy đủ mười Phật hiệu, tướng tịnh thanh
Pháp chư Phật trước sau đồng một vị.
Tám vương tử thông minh và tài trí
Uy đức cao, cùng thống lĩnh bốn châu
Nghe vua cha thực chứng pháp thâm sâu
Bỏ ngôi báu, vui xuất gia cầu đạo
Giữ phạm hạnh làm pháp sư thuyết giáo
Tự nghìn xưa từng gìn giữ căn lành
Chuyển mê tình, thân, ý, bỏ đua tranh
Ví đất mới ươm trồng hoa trái Phật
Ðức Thế Tôn nói kinh Vô Lượng Nghĩa
Liền nhập vào chánh định tĩnh thân tâm
Ðất reo vui, sen báu ngát hư không
Các đại chúng chắp tay hồng chiêm ngưỡng
Tướng bạch hào phóng quang nghìn cõi nước
Khắp mười phương tánh, tướng cũng chung đồng
Cõi trời người thể, dụng nghĩa viên dung.

Trong pháp hội có Diệu Quang Bồ Tát
Căn bản trí, rạng ngời như ánh sáng
Phật vì ngài thuyết Diệu Pháp Liên Hoa
Suốt sáu mươi tiểu kiếp một bửu tòa
Tri kiến Phật, không và thời dung nhiếp.
Ngài Ðức Tạng đủ đầy muôn sai biệt
Ðức vẹn toàn lợi lạc khắp nhân quần
Sẽ tựu thành Phật quả hiệu Tịnh Thân
Phật thọ ký, và nửa đêm nhập diệt.

Diệu Pháp Hoa thọ trì hằng tiểu kiếp
Ngài Diệu Quang giáo hóa tám người con
Vị sau cùng là Phật hiệu Nhiên Ðăng
Thắp đuốc pháp chuyển Thức sang Thánh Trí
Cũng như vậy, tám trăm người đệ tử
Có một người pháp hiệu gọi Cầu Danh
Bởi tham mê danh lợi, chẳng trì kinh
Thường như Ý, duỗi rong lòng gió bụi.

Ngài Di Lặc! xưa Diệu Quang Bồ Tát
Chẳng người nào xa lạ, chính là Ta
Người cầu danh, chìm đắm giữa trần sa
Qua nhiều kiếp chuyển tâm là ngài vậy!
Ta quán xét việc xưa, lòng hoan hỹ
Ðức Thế Tôn lại sẽ thuyết diệu kinh !

Thứ Tư, 15 tháng 4, 2009

mở cửa mặt trời



...áo mặt trời ẩn hiện một bàn tay,
mười phương thế sự - một tâm nầy.

Tán thán công đức

Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy,
Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa
Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa
Quy thân mạng mười phương con đãnh lễ.

Mở kệ

Trên tờ nguyệt mật hoa khai dòng kệ
Bút lan thơm từ thuở núi chưa già
Tiếng hạc chầu đêm rất thánh về qua
Quy niệm giác mười phương con đãnh lễ.

Dâng kệ

Khấu đầu lạy hoa rừng vui ứa lệ
Chim ngậm cành lá ngọc hát trên sương
Xuân thu nào trí tuệ mở dị thường
Quy ý pháp mười phương con đãnh lễ.

Khẩn nguyện

Dâng lời nguyện muôn thân quỳ dưới bệ
Với đại từ làm tông chỉ qui y
Ngã, Pháp không hóa hiện ứng duyên tùy
Như phương tiện huyễn thân làm diệu dụng.





Đất Lạc-Dương hóa sinh như huyễn dã (1,2)
Cũng như từng bao lần đã thọ thân
Đức mẫu từ trong giấc ngủ cùng trăng
Thấy đồng tử thiên y màu lụa bạch
Quang sắc lạ tỏa ngời đêm tịch tịnh
Đi về tây, đất trổ dấu hài in.

Tuổi mười ba, tay mở Niết-Bàn kinh
Đèn một ngọn, mặc tình muôn thế sự.
Đại-Từ-Ân mượn nơi làm tăng lữ (3)
Theo tôn sư học luận Nhiếp- Đại-Thừa (4)
Đọc dòng kinh lòng thoảng gió mây đưa
Ý siêu thoát, âm vang như đồng vọng

Trên pháp tọa lời lời tuôn châu ngọc
Nghe thuyết kinh tàng lọng tạ ân sâu
Suối ngừng reo, cây khép lá nghẹn ngào
Mười ba tuổi, vang danh từ thuở ấy.

Thắp đuốc pháp cho mặt trời thức dậy
Mở tâm người thủy nguyệt hiện toàn chân
Riêng một thân một ngựa đến Trường An (5)
Học kinh pháp với lòng vô phân biệt

Luận Câu-Xá đã hai lần quán triệt (6)
A-Tỳ-Đàm, tông Thành-Thật gẫm suy (7,8)
Vượt trùng quan vó biếc một thân Kỳ (9)
Trên muôn dặm một lòng mong thấy Phật.

Tờ kinh cũ, gió lay đêm huyền hoặc
Tự ngàn xưa dòng mực hiện pháp âm
Mà nơi đây chiếc bóng quyện hương trầm
Trí khao khát mơ thầm trăng Linh-Thứu. (10)

Đêm mộng lạ đỉnh Diệu- Cao ngọc báu (11)
Giữa đại dương ngời nước biếc hiện ra
Đóa sen vàng thay thuyền rước đưa qua
Nương lá gió mượn hoa vào đất Phật

Ôi đất cũ có nhớ lời hẹn gặp
Bến Lương- Châu mang giáo pháp dạy người
Lệnh vua truyền phong tỏa khắp nơi nơi
Giữa đêm lạnh âm thầm trên lưng ngựa

Đến Linh- Châu trải muôn vàn gian khổ
Đường quanh co còn lại chỉ một mình
Ngước nhìn trời, mây nước cũng lặng thinh
Ngọc-Môn ải đã đành xa vạn dặm.

Cây ngô đồng bắc cầu qua sông rộng
Hồ-Lư- Giang in bóng nước tăng bào
Mạc-Hạ-Diên cát lạnh với trăng sao
Đêm lạc bước giữa xương người, phân ngựa.

Ai bỏ xác trên đường đi quá nửa
Ngày lên cao sa mạc cháy xương da
Hơn bốn ngày Bạch-Mã hãy còn xa
Rơi bầu nước trên tay không một giọt.

Thiêm thiếp mộng nửa hồn như thanh thoát
Trên môi khô lời nguyện vẫn chưa quên
‘ Xin làm người thắp đuốc sáng trong đêm,
Xa đất Phật, nguyền không quay trở lại.’

Đêm yên lặng, nửa hồn xa trần giới
Thấy trong mơ thánh thể tỏa hào quang
Sương đêm buông sa mạc ngở đạo tràng
Gió mát dịu tưởng cành dương rưới nước.

Ngựa đưa người đến bên đồng cỏ ướt
Sau hai ngày dừng lại đất Y-Ngô
Vua quan cùng tăng sĩ đến dựng cờ
Đồng đãnh lễ dưới chân người tìm Phật

Đất vui trổ lá hoa mừng chánh pháp
Chim họp bầy tấu thiên nhạc trên không
Vua Cao-Xương gởi thiếp viếng hoàng cung
Đến Bạch-Lực sáu ngày băng sa mạc.

Tay thắp đuốc, tay cầm hương tiếp rước
Vua tự thân cung thỉnh đến đạo tràng
Cờ quạt bay rợp đất, trống chiêng vang
Tuôn mưa pháp thức muôn lòng say ngủ.

Đỉnh Linh-Sơn có còn như ngày cũ ?
Mây Kỳ-Viên phiêu bạt đã bao lần ? (12)
Dõi mắt nhìn sông nước cũng bâng khuâng
Hồn đất thánh giục thầm chân tăng lữ.

Vua xuống lệnh xây thêm đền điện mới
Chuốt đũa vàng, chén ngọc kính dâng lên
Khiến sai người cung kỉnh suốt ngày đêm
Tâm mến pháp sinh lòng lưu giữ lại

Hoa đại đạo nở cho ngàn thế giới
Ngọn lữa thiêng- tờ lá bối chép kinh
Từ tạ vua, dứt áo bỏ cung đình
Lìa thế tục cầu chi danh lợi hảo.

Xưa Thiện-Tài hơn trăm thành cầu đạo (13)
Mỗi tờ kinh mực đọng dấu hài ai
Ngài Ba-Luân khóc suốt bảy đêm ngày (14)
Cầu trí tuệ mở khai tâm bát nhã. (15)

Pháp bất-nhị nay đà chia đôi ngã (16)
Bắc và Nam hai mối đạo không đồng (17)
Người luận kinh sự, lý chẳng viên thông
Nhớ lời Phật, pháp truyền qua Đông độ. (18)

Xưa Ca-Diếp-Ma-Đằng vào Trung thổ (19)
Mang cho người trang Tứ-Thập-Nhị-Kinh
Vườn Tiêu Dao-vua dựng gác Tây-Minh
Ngài La-Thập từ Phạn-văn phiên dịch (20)
Cho người Hán hơn bốn trăm kinh quyển,
Trên đất Tần bút pháp kết ngọc hoa.
Pháp-Hộ đời Tây Tấn cũng tìm qua (21)
Mang lời Phật chép ra trang Hán tự.

Đỉnh Ngân-Sơn áo bay- vô trụ xứ (22)
Dòng A- Phu suối giữ bóng nguyệt tà.
Dấu tăng hài lá cỏ nép bên hoa
Phiến đá lạnh gối đầu đêm gió núi.

Hơn trăm dặm đồng cỏ xanh lầm lũi
Thành Khuất-Chi hùng biện trước đền vua
Người Cúc-Đa khinh mạn Luận-Du-Già (23,24)
Giữa pháp hội tỏ ra tăng-thượng-mạn.

Tâm từ ái đâu màng tranh sâu, cạn
Dẫn dắt người ví tát cạn ao sen
Như cánh vàng rực rỡ, nước bùn chen
Mang Tiểu, Đại hai thừa ra minh giải.

Kinh pháp Phật học khi còn thơ dại
Từ Thanh-Văn, Duyên-Giác đến Phật thừa.
Lời kinh nào chẳng phải pháp âm xưa,
Trí mê chấp mở bày tâm phân biệt.
Trí huệ Phật - ôi hai vầng nhật nguyệt.

Đi về tây, tìm đến thành Tô Diệp
Hai ngàn người Đột- Quyết cướp trên đường
Vào trại binh thuyết pháp giữa vòng gươm
Kinh Thập-Thiện dạy người xa nẽo dữ.

Sau bảy ngày lạc trong vùng núi tuyết
Vượt đại hồ, thành Tô Diệp dừng chân
Về phương tây, nghìn suối nước Bình-Tân
Hai trăm dặm đến thành đô Bạch-Thủy

Rời Cung-Ngự hơn dặm ngàn thiên lý
Đường tây nam sa mạc trải xương khô
Không dấu chân, không nước, cát xây mồ
Ai đã đến- nắm xương còn bỏ lại.

Vào cung điện trước quân thần thuyết giải
Mỗi bước đi tang hải cũng ngậm ngùi
Thiết-môn-quan ngàn dặm nước mây trôi
Sang sông lạnh tìm đến miền Hoạt quốc.

Người cầu pháp giữa đêm dài thắp đuốc
Đưa thiếp mời vấn Luận-Tỳ-Bà-Sa (25)
Đạt-Ma là tên gọi vị tăng già
Vang danh khắp vùng núi đồi Thông-Lĩnh.

Trước môn đệ phải cúi đầu cung kỉnh
Người dặm trường tìm Phật, trí như mây
Mỗi ngôn từ là mỗi pháp âm bay
Không chỗ trụ trên tờ kinh vô tự.

Thành Ba-Lợi tìm lại người huyền sử
Đến tháp thờ nhìn thấy dấu Thế Tôn
Chậu rữa tay, răng Phật, chổi cỏ rơm
Ôi đã phải vì người mà lưu lại.

Ka-pi-sa gặp nhiều tông lắm phái
Hoa như lai trổ đất Phật muôn mầu
Vua dựng tràng mở hội luận nông,sâu
Đại thừa giáo- ngài Ý Thanh, Huệ Tánh (26,27)

Nhất-Thiết-Hữu cùng Sa-Di-Tắc-Bộ (28)
Đồng uyên thâm kinh điển thuộc tông môn
Trước điện vàng, pháp Phật rộng càn khôn
Cả pháp hội phải một lòng qui phục.

Đại-Tuyết-Sơn giá băng tràn thung lũng
Gió rừng đêm rét lạnh mảnh tăng y
Trời mưa hoa tuyết trải trắng đường đi
Tiểu-Sa-Lãnh, núi Hắc-Sơn tiếp nối

Đồi gặp đồi, núi qua rồi lại núi
Sương mai về kết ngọc hạt long lanh
Người săn nai chỉ lối rẽ rừng xanh
Ngôi cổ tự Sa-Lạc-Ca dừng ngựa.

Na-ga-ra đất bùn ai trải tóc (29)
A-Dục-Vương tháp ngọc nhiễu quanh vòng (30)
Đăng-Quang-Thành mong thấy bóng Từ Tôn (31)
Trước thạch bích khấu đầu hơn trăm lạy

Đá nín lặng, đất trời như đọng lại
Cất lời than, cây cỏ cũng lặng im
Lệ tuôn dòng theo mạch máu về tim
Tiếng khẩn nguyện vọng từ hang núi lạnh.

Dường như đất vỡ ra thành muôn mảnh
Dường như trời khép lại một bầu không
Dường như trăng về hẹn giữa đêm rằm
Trên vách đá hiện một vòng ánh sáng.
Đầu đảnh lễ ánh từ quang tỏa rạng
Bóng Thế Tôn hiện rõ nếp kim lan
Chư Thanh-Văn, chư Bồ-Tát hai hàng
Động rêu đá hóa đạo tràng như huyễn.

Hơn ngàn dặm đi về miền Bắc Ấn
Ngựa dừng cương chùa Hộ-sắc-ca-la
Vòng tay cung, tăng chúng bước chân ra
Cùng đảnh lễ người phương xa cầu pháp.

Liền kể lại giữa khuya vừa khép mắt
Nghe trong mơ lời thúc giục tham thiền
Trên hư không hóa hiện dáng chư Thiên
Hoa trải lối, đèn đưa đường tìm Phật.

Vua nghe tiếng truyền ngựa xe tiếp rước
Đến kinh thành lưu lại viện Già-la
Trong hai năm cầu học vị tăng già
Ngài Tăng-Xứng, mỗi ngày ba thời pháp.(32)

Đồng thanh khí lời kinh tương hội nhập
Ngỏ lời khen : trí huệ sánh tiền nhân,
Đâu thẹn cùng ngài Vô-Trước, Thế-Thân (33,34)
Tiếc không sớm thấm nhuần hương vị đạo .

Bảy trăm dặm trèo non rồi lội suối
Về tây nam đến Yết-bổ-đà-la
Vượt dòng sông dùng lại đất Thước- ca
Đến học đạo với tông đồ Bồ Tát
Phái Trung-Luận tám trăm năm giáo pháp (35)
Dựng Không-môn miền Nam Ấn truyền thừa
Vị tăng già- đồ đệ của người xưa
Thông kinh tạng luận Bách-môn, Quảng-bách.(36,37)

Về phương đông đến Chi-na-phát-đế
Hơn một năm thọ pháp với tỳ khưu
Điều-Phục-Quang dạy Đối-pháp, Lý-môn (38,39,40)
Cùng chú giải ba mươi bài Duy-Thức.(41)

Mạt-thố-la tháp thờ môn đệ Phật
Trên lá hoa thấp thoáng đạo tràng xưa
Áo bày vai bên hữu, gối quỳ thưa
Như huyễn hiện vào ra ngôi tháp cổ.

Dừng chân đứng bên dòng sông cổ độ
Nước sông Hằng muôn thuở chảy về đâu
Bên dòng xưa dừng ngựa suốt mùa đông
Mở Kinh-Bộ Tỳ-bà-sa cầu học.( 42)

Đến Mạc-đế học Biện-chân, Phát-trí (43)
Khúc-nữ-thành ba tháng lại học kinh (44)
Tỳ-bà-sa ngài Nhật-Trụ thuyết minh (45)
Cuối mùa hạ, A-du-đà dừng lại.

Mỗi thánh địa buộc thuyền vào chiêm bái
Đến A-đề giặc cướp chận trên sông
Tế nữ thần, chọn làm vật thiêu thân
Tâm an định khiến cho người kinh ngạc.
Trời lộng gió thổi lật thuyền, bay cát
Cây hai bờ trút lá xuống lòng sông
Chừng thiên nhiên rúng động, nổi cuồng phong.

Đất Xá-vệ hơn dặm ngàn dừng ngựa (46)
Kỳ-thọ-viên vàng dát kín đất vua
Ca-tỳ-la đất cũ có bao giờ (47)
Thoáng nếp áo - tưởng người xưa cầm bát.

Rừng Sa-la vời bay đôi cánh hạc (48)
Gió hiu hiu làm động mấy tờ kinh
Câu-thi-na ba lần hiện hồi sinh (49)
Vườn Lộc-uyển lần đầu tiên chuyển pháp.

Phệ-xá-li, ứng thân Duy-Ma-Cật (50,51)
Ngài A-Nan xin bát sữa đề hồ (52)
Giường bệnh nằm hay thánh thất Tỳ-lô (53)
Pháp bất-nhị, vấn kinh không lời đáp.(54)
Ma-kiệt-đà tam tạng kinh kết tập (55)
Lần đầu tiên khi Phật nhập niết bàn
Cội bồ đề quỳ lạy, cất lời than
Cho dù biết Phật trên ngàn, dưới suối.

Nghìn cư sĩ kết hoa dâng pháp hội
Chư tăng ni cờ lọng chắp tay sen
Na-lan-đà bốn vị đại tỳ kheo (56)
Đến cung thỉnh rước về nơi tinh thất.

Chánh-Pháp-Tạng, ngài Giới-Hiền Bồ-Tát (57)
Hơn ba năm đã có ý đợi chờ
Người phương đông cầu pháp-thoáng trong mơ
Trên đất Ấn, dạy pháp môn Duy-Thức.

Na-lan-đà hơn năm năm dừng bước
Luận Bách-môn, Trung-quán,luận Du-Già
Một tờ kinh, một bóng, một đèn hoa
Ba lần giảng, ba lần nghe pháp vị.

Núi Hi-Lô kết hoa dâng lời nguyện
Tượng Quán-Âm hoa rải khắp trên thân
Nguyện mang kinh về đất cũ hoàn an
Như thật tướng nguyện tái sinh Đâu-Suất
Thấy Phật tánh, nguyện đời sau thành Phật
Nhận gia tài túi vải nặng hai vai (58)
Trên chiếc hài vương lá cỏ trần ai.

Kinh Vệ-Đà, tục truyền do thiên khải
Từ Phạm-Thiên, Đế-Thích xuống nhân gian
Mở tờ hoa tìm học những lời vàng
Mang so sánh với đạo tràng chư Phật.

Tâm bát ngát vượt trên Không và Sắc
Trí bao la đâu chấp Hữu hay Vô
Na-lan-đà cổng tu viện dựng cờ
Xé mảnh giấy của tông đồ ngoại đạo. (59)

Pháp chư Phật vượt trên tông và giáo
Lạ lùng thay- người chấp áo, chấp khăn
Dâng lên vua Giới-Nhật một bài văn
Cùng bài bác thuyết ‘Không’ như tà đạo.

Khúc-Nữ-Thành dựng hội trường luận thảo
Mười tám vua cùng chư vị tăng ni
Tượng Phật vàng voi trắng mở đường đi
Ngà chuốt cán, lọng tàng hoa kết ngọc.
Áo Đế-Thích, Phạm-Thiên làm sắc phục
Hai vì vua cầm lọng đứng hầu bên
Hoa trải đường, pháp nhạc trỗi trang nghiêm
Đồng cung thỉnh vào pháp đường an vị.

Chế-Ác-Luận phá trừ tâm nghi kỵ
Như mặt trời tỏ rạng ánh bình minh
Một bản văn truyền dán trước cổng thành
Ai bác được- nguyện dâng đầu chịu tội.

Một bản văn đọc bên trong pháp hội
Trước hàng ngàn tu sĩ cả đôi bên
Lời từ tâm vô ngại, trí vô biên.

Khắp hội trường không gian như chìm lắng
Các vì vua đồng hoan hỉ chắp tay
Hơn mười ngàn đại chúng suốt năm ngày
Cùng yên lặng không một lời vấn, đáp.

Vua khuyến khích ai người mong luận pháp
Được tự nhiên bày tỏ mối nghi nan
Đến cuối ngày bổng náo loạn hội tràng
Nhóm đối lập bày mưu toan hãm hại.

Vua xuống lệnh ai người không chính đại
Thiếu quang minh, hành động chẳng nghĩ suy
Y luật hình trừng trị chẳng kiêng vì
Buổi vấn pháp được duy trì tiếp tục.

Mười tám ngày số đông người qui phục
Trải thảm vàng, kiệu ngọc rước vòng quanh
Lời tung hô, chúc tụng khắp trong thành
Nêu danh hiệu ‘giải-thoát-thiên’ dâng tặng.

Đức khiêm cung từ tâm vô-sở-đắc (60)
Như- chân không. Thị- diệu hữu giả bày (61,62)
Lữa không sinh thiêu rụi chõng luận, suy
Gió chẳng trụ thổi tung sàn xuất, nhập

Tâm phân biệt sinh muôn vàn kiến chấp
Trí dở, hay toan lấy giả làm chân
Thuyền từ qua bể khổ cũng không hơn
Phương tiện hạnh mở bày như diệu dụng.

Tay nhân ái viết thiên Hội-Tông-Luận
Mong dung hòa nghịch, thuận- trí thế gian.
Cùng đồng qui Trung- quán với Du-già
Về nhất tướng- vẫn không ngoài Vô-Tướng.(63)

bát nha ca tác gỉa từ hoa





Biển tâm bát ngát từng xanh

Uyên thâm trí huệ tịnh thanh mật huyền
Bè lan chèo trúc qua miền
Đưa đường bát nhã con thuyền chân tâm

Gối tay mộng giấc trăm năm
Tình vương nẻo ý về trong ơ hờ
Nửa dường theo với trăng mơ
Nửa như chết lặng trên tờ thiên thư

Tâm kinh vượt sóng không hư
Sóng như chút mộng đã từ xa khơi
Ngậm ngùi chi giữa dòng trôi
Ngàn năm mặt nước không lời lặng im

Chỉ hồng kéo sợi theo kim
Đan đi đan lại nhân duyên luân hồi
Hoa kinh mối đạo diệu vời
Mở ra hiền thánh gót dời nẻo tâm

Đại bi Bồ Tát Quán Âm
Vượt trên thánh trí tâm đồng hư không
Mắt từ tươi sợi nắng hồng
Ý từ xanh giọt sương trong lá ngà

Sầu ai hìu hắt ngàn hoa
Nghe như lệ đọng nhạt nhòa sương phơi
Cửa thiền mở cổng mây trôi
Rừng thiền tỏa ngát hương trời vô ngôn

Hóa thân ảo hiện bãi cồn
Trên tờ lá biếc nhập hồn cỏ cây
Muời phương nào kể đông tây
Hành tung một vết chim bay giữa trời

Áo tà dương phất cõi người
Lời ru ấm lại vành nôi bao ngày
Hồn ai lưu lạc chốn nầy
Tiếng than nứt đá động bầy nhạn sa

Rồi mai dẫm bước ta bà
Ý tình bóng lá dáng hoa mơ màng
Trăm năm giấc mộng kê vàng
Ngàn thu còn lại một làn sương bay

Tâm người như vạt gió lay
Thân người hạt nước trên tay ai cầm
Giữa lòng đại đạo mênh mông
Muôn kinh bổng hiện một dòng mây trôi

Mỏng như sợi khói lên trời
Lời như tiếng vọng bên đời ban sơ
Trang kinh hóa một dòng thơ
Vỡ tung mạch lạnh hững hờ chiêm bao

Vút cao theo với ngàn sao
Nở tươi từng cánh tinh cầu trong đêm
Tâm bình đẳng, trí như nhiên
Mười phương Phật quốc, một miền cỏ hoa

Rồi mai những hạt lệ sa
Biến thiên giữa cõi phong ba muôn chiều
Tay ngà xương trắng quạnh hiu
Giấc ngà tóc rủ buồn thiu cội sầu

Sinh từ đâu, tử về đâu
Chiếc thân hư ảo một màu khói sương
Vấn vương cơn mộng đoạn trường
Lòng mê chìm đắm nửa khuôn trăng vàng (1)

Trông ra mộ nấm hàng hàng
Nến ai thắp giữa đêm tàn mông lung
Áo bay trắng cõi vô cùng
Trôi trên dâu bể một vùng chiêm bao

Cành sương lả nhánh gầy hao
Đêm qua còn ngủ vườn đào mái tây
Nghiêng triền dốc dựng hoa bay
Vàng phai lấm tấm trên dây đoạn trường

Ô hay, cơn mộng dị thường
Đâu từ muôn kiếp lạc đường chân chim
Trăng sao khép, mặt trời chìm
Giữa lòng bão nổi, hai miền sầu chia

Gọi người cuối bãi sông mê
Thả xuôi chiếc lá trôi về bến nao
Con chim hót dưới cội đào
Con chim nhỏ giọt lệ vào trăng không (2)

Hoa còn tươi giải nguyệt phong
Hóa thân tan sợi khói vòng ngón tay
Ô hay, mộng thực dường nầy
Cuốn trôi hoa rụng, lá bay rã rời

Ôm trang cổ tích ngậm lời
Bốn bề im lặng, ngậm ngùi chi nhau
Ơi con nước chảy về đâu
Mà lòng suối cũ nhịp cầu nằm trơ

Trầm nhật nguyệt, giãi nắng mưa
Mặc cho sóng bủa đôi bờ hợp tan
Phiến kinh biếc, chuyến đò ngang
Chân như thấm giọt lệ vàng trang kinh

Mở tung hư ảo ý tình
Mở tung huyễn tướng hiện hình chân thân
Dòng sầu là một dòng tâm
Trôi trên cồn bãi trầm luân giãi dầu

Chẳng từ đâu để về đâu
Chiếc thân ảo hóa bể dâu bao tuồng
Vàng hoa ngọn tóc trổ hường
Trên nhành lá thắm cuối đường sông mê

Đứng trên đỉnh lộng sương khuya
Sáng ra phơi áo bên kia dòng đời
Vào ra bao cuộc đổi dời
Đến đi như ngọn nước xuôi chân cầu

Từ ngàn sau đến ngàn sau
Dấu chân đất trổ tươi màu cỏ hoa
Điệu trầm lắng tiếng chim ca
Tử sinh như nửa cánh sa đầu ghành

Hòa chung mạch suối vô thanh
Sớm mai lại nở thơm nhành ngọc lan (3)

Rồi mai nhụy rữa cánh tàn
Hương bay biếc sợi tơ vàng cuối thôn
Chân thường hiện giữa vô thường
Như lai về sáng giọt sương sa mù

Tan trên đỉnh lộng thiên thu
Lá hoa khép mở câu ru ạ ời
Là không, là có diệu vời
Khi tan khi hợp cho đời đó thôi

Mai nầy trên đỉnh mây trôi
Sắc không hóa một chuỗi cười vô âm
Tầng không tay kết kén tằm
Đem hoa vàng trải chín tầng quê xưa

Áo về bay cõi không mơ
Trăng ngà rót giọt qua bờ tóc buông

Chân như ướp lá trên nguồn
Tan trong vô tướng dứt đường chân chim
Rồi mai hoa trổ vườn tiên
Rồi mai ảo hiện trăm miền nước xuôi

Giả thân, giả tướng giữa trời
Giả tâm, giả cảnh ngọt lời nguyên ngôn
Theo duyên biến hiện vô cùng
Khóc cười tiếng vọng một vùng mơ hoa

Tánh không đãnh lễ tướng không
Tóc xưa hóa sợi nắng hồng ấm môi
Về ngang nương sắn mỉm cười
Thương lời lá hát chân đồi vọng vang

Chân thân ảnh hiện đạo tràng
Dấu chân đồng tử trổ vàng búp hoa (4)
Trang nghiêm cõi nước hằng sa
Trang kinh đậm dấu mực hoa sáng ngời

Lõng buông tay khấu trông vời
Ngựa hồng bãi biếc cũng lơi nhịp dồn
Về ngang núi ngọc thả buồm
Giong qua biển bắc xuôi cồn về nam

Thiên đường hóa sợi khói lam
Ngàn tiên hóa bướm bay ngang lưng trời
Im nghe lá cỏ ngậm ngùi
Tiếng con sâu nhỏ hát lời vô ngôn

Nghe trong hơi thở hoàng hôn
Đâu chừng mạch đất vỡ tung cội mầm
Hỏi người là ngã hay nhân
Ai về dưới nguyệt dấu chân hạ vàng ?.

Mơ tiên xanh lá trên ngàn
Tiếng con hạc trắng dưới hàng liễu thưa
Suối xưa chảy sợi vàng tơ
Qua miền tang hải hiện tờ ngọc kinh

Mặt trời về lại lặng thinh
Sáng trên tuyệt đỉnh ảo hình ảo thân
Mở rương ngọc gấm vàng trâm
Dòng hương rơi rớt nửa cung lặng chìm

Ô hay, trăng vẫn như nhiên
Ngàn thu soi nước hồ in một vầng
Ô hay, búp lá sen vàng
Chưa dừng hương ngát thiên đàng trời không

Trên tầng biếc trổ nụ hồng
Chim bay về tổ khói vòng chân mây
Ô hay, giọt nước mắt đầy
Rơi trong giấc bướm vàng bay qua đồi

Giọt sương hiện tướng tuyệt vời
Hóa thân suối nước cam lồ trên tay
Lá nào chẳng phải nhành tây
Cành dương đâu chẳng phải dây mướp vàng

Hư không mở cửa đạo tràng
Tâm kinh là nước trường giang đượm nhuần
Chẳng riêng mà cũng chẳng chung
Tay ôm ba cõi vào lòng chân tâm

Sợi mây đem kết võng nằm
Câu thơ làm chiếc khung tằm kéo chơi
Tơ bay phủ núi che đồi
Vào trong nhân thế sáng ngời ánh dương

Tay hoa búp trổ nụ hường
Kết trên tà áo vô thường tặng nhau
Rồi mai bể rộng núi cao
Rồi mai dưới vũng trên hào cũng kinh

Rạng ngời tự thể âm thanh
Rỗng rang như cọng sen xanh trong đầm

Sợi mây đem kết võng nằm
Câu thơ làm chiếc khung tằm kéo chơi
Tai nghe tiếng gió ru hời
Về trong cây lá thuyết lời kinh hoa

Dặm ngàn bãi vắng cồn xa
Hóa ra đất thánh trăng ngà ngà lay

Phật thân hiện giữa cõi nầy
Trang kinh vô tướng tuôn đầy lòng thơ
Năm vòng mũ ngọc xa xưa
Về bên luống đất nắng mưa giãi dầu

Chắp tay biết gởi về đâu
Đất nào chẳng hiện hạt châu di đà

Hạc xưa ngủ cội hoàng hoa
Về chơi ngang núi mặc tà dương bay
Như cơn mộng trở giấc mai
Biến thân huyễn tướng trên dây đàn buồn

Gió mưa cho mấy dập dồn
Cuốn theo thác lũ mưa nguồn một thân
Thiên quan ướm hỏi xa gần
Mà đây bóng ngã con đường quanh co

Gió đông dù chẳng đơm hoa
Mà mầm lộc biếc đâu xa cội nầy
Ô hay, sâu cạn vơi đầy
Như dòng ảo hóa đặt bày mà chơi

Ngủ quên trên chiếc sao ngời
Sớm mai về lại giữa trời thiên thanh
Rồi mai thơ hóa thành kinh
Rồi mai áo hạc kết hình đài hoa


Cỏ nào xanh hội tháng ba
Dòng thơ đọng lệ muôn hoa vào đời
Nhược Da lụa biếc đem phơi
Cỏ hồng sông Hán chìm rơi đất Hồ

Cảnh nào khác cảnh trong mơ
Người nào rồi cũng đôi bờ hợp tan
Đất nào chẳng phải đạo tràng
Lời nào chẳng phải lời vàng thuyết kinh

Lặng im trên đỉnh âm thanh
Vỡ tung tầng biếc hiện hình Phật thân
Tâm về an trụ hư không
Dòng kinh thấm đất trổ hồng chân thân

Dấu xưa mỗi bước mỗi dừng
Mưa sa tóc rối mưa lồng trong mơ
Hai tay ôm nửa dòng thơ
Qua cầu rớt lại bên bờ nước xanh

Mai về cởi áo tử sinh
Vắt trên ngọn trúc đầu ghành mà chơi
Trẻ thơ khúc khích miệng cười
Tơ bay trắng sợi mây trời tháng ngâu

Hương trầm gởi khói về đâu
Quyển kinh làm chiếc thuyền câu qua dòng

Chèo trên bể khổ hư không
Chèo qua ba cõi tâm đồng vô biên
Chèo về tắm suối trăng thiêng
Chèo lên đỉnh thượng xuống miền hà hoa

Tay ngời biếc nhánh sao sa
Đem về nơi cõi ta bà tặng nhau
Hóa thành hạt ngọc thuở nào
Giấu trong chéo áo chiêm bao những ngày

Uyên nguyên tự thuở sơ khai
Rừng xanh cây lá phô bày tự nhiên
Suối reo câu hát non thiền
Trăng treo một chiếc hài tiên trên ngàn (5)

Tâm không vỗ cánh niết bàn
Trí không về hỏi đạo tràng cũng không
Ý từ thấm diệu mênh mông
Về trong muôn pháp trổ bông cúc vàng

Tánh không chính thực đạo tràng
Trổ trên dâu bể hạt vàng như lai
Vầng nhật nguyệt, sợi tóc mai
Hiện thân vô tướng, dấu hài cũng không

Về trên đỉnh biếc non bồng
Hóa thân làm cánh nhạn hồng trời tây
Rồi mai vẫn bụi cát bay
Rồi mai vũ trụ vẫn tày bể dâu

Người về lại đỉnh hoa ngâu
Long lanh giọt nước mắt màu ánh dương
Thương con nước rẽ muôn đường
Bao giờ về lại cội nguồn thác xưa

Đường mây dặm lục xuân mơ
Gió đưa về lại nửa tờ thiên thư
Lữa tàn nay tắt âm dư
Thuyền lan bóng nguyệt chở chân như về

Tay nâng chuỗi ngát bồ đề
Nâu vàng gỗ đượm hương quê bàng hoàng
Tay nào trên những dây đàn
Tay nào mở cửa động vàng bụi bay

‘ Lang thang giữa phố chợ nầy
Tìm đâu cho gặp những ngày đã qua
Tìm đâu áo nụ tà hoa
Mẫu đơn ngàn cánh nở ra tiếng đàn

Tỳ bà mười sáu dây vàng
Chưa từng nối lại hàng hàng âm giai
Tỉnh ra tay lại trắng tay
Cười bên dòng thác chia hai nẻo về

Bàn tay sấp ngữa tỉnh mê
Ôm sao cho trọn lời thề hôm qua
Thôi thì trả lá trả hoa
Thả dòng thơ nguyện nở ra bồ đề’

Chim từ nhớ cội hoa mơ
Bay về qua núi ngủ nhờ trên cây
Lòng đà như áng mây bay
Chờ nghe ngọn gió heo may xuôi ngàn

Ra đồng hát khúc tình tang
Mở ra tròn bóng trăng vàng trong tay
Thắp hương lạy một lạy nầy
Cho xanh biếc núi cho đày mạch sông

Cho ngàn nhánh lúa đơm bông
Cho cờ lau dựng song song mặt thành
Trăng xưa dù vỡ hay lành
Khác chi bóng rụng dưới ghành núi lam

Bao la trời đất thánh phàm
Về chung một bóng trăng ngàn lững lơ
Trời êm đất cũng êm mơ
Dấu con chim hạc vút tờ hoa tiên

Rơi thành sợi khói trầm thiêng
Nhập làn sương mỏng đọng trên cánh tình
Hiện thân tâm hạnh ngàn xanh
Thấm dòng mực tím vòng quanh đóa sầu

Đại Bàng vỗ cánh đêm sao
Vút bay rớt lại một câu kinh vàng
Về qua cõi mộng thênh thang
Trên đôi cánh rộng tỏa ngàn đóa sao

Ngàn sau núi vẫn một màu
Riêng chung đất rộng trời cao mấy tầng
Vỡ tung huyễn cảnh huyễn thân
Chuỗi cười vọng lại nghe chừng chơi vơi

Mũi tên bay vút mặt trời
Cắm trên đỉnh lộng rạng ngời thái hư
Núi hoa mở hội chân như
Hẹn nhau một cuộc hẹn từ tâm không

Vườn nhà thu cúc đơm bông
Mời nhau ươm sợi cỏ hồng trên sương
Trăng ngà rót chén quỳnh tương
Hóa ra dòng kệ chân thường bay lên.

Từ Hoa

Thứ Ba, 7 tháng 4, 2009

005 nhap phap gioi dia 005.avikinh hoa nghiem phô tho tuhoa



Ngài Thiện Tài nhiếp thu chánh niệm,
Một lòng cầu, bất thối chuyển tâm.
Liền dùng Phổ-nhản thiện căn,
Quán sát pháp giới, mười phương đạo tràng.

Tâm đại bi, Kim Cang kiên cố
Nguyện vị lai theo Phổ Hiền môn.
Tử sinh dù đã thuận dòng,
Hồn lìa cảnh mộng, trụ tâm đại từ.

Định thần quang, Thiện Tài Đồng Tử
Thấy từ trên Pháp Bửu Liên Hoa,
Tôn nghiêm, vi diệu hiện ra,
Phổ Hiền Bồ Tát trước tòa Như Lai.

Đồng tam thế, mở bày cảnh giới
Tâm thế gian khó nỗi thị, phi.
Vô biên đại trí, đại bi
Chư Bồ Tát cũng khó suy, khó bàn.

Quang-minh-vân diệt tan khổ hoạn,
Từ trong thân Bồ Tát hiện ra.
Mây trời kết hợp diệu hoa,
Thiên Vương, thiên chúng hằng sa thỉnh mời.

Chuyển pháp luân ba đời chư Phật
Cùng hằng muôn Bồ Tát hóa sanh.
Tán dương chư Phật hồng danh,
Tăng trưởng thiện nghiệp, thiện căn muôn loài.

Hạnh Phổ Hiền sáng soi pháp giới
Hoán chuyển tâm, mở lối, đưa đường.
Chúng sanh y cứ, dựa nương
Thành nhất-thiết-trí, mười phương đạo tràng.

Khắp pháp giới Phổ Hiền Bồ Tát,
Trên bửu tòa rực sáng thần thông.
Nghe ra tất cả ngôn âm,
Chư Phật thuyết pháp khắp trong thế trần.

Nhập pháp giới, Thiện Tài chứng đắc
Mười trí ba-la-mật diệu kỳ.
Cõi Phật, nhất niệm đến, đi
Cúng dường, nghe pháp, thọ trì, tư duy.

Thần thông bất tư nghì của Phật,
Đạt diệu âm vô tận biện tài.
Thân-huyễn quán pháp-huyễn bày,
Nhập thật-tướng-hải, trong ngoài nhất như.

Tâm chúng sanh biết từ vọng khởi,
Niệm niệm trong cảnh giới Phổ Hiền.
Được mười trí lực vô biên,
Vô lượng tam muội phan duyên khắp cùng.

Trong mỗi tam muội môn liền thấy,
Hằng muôn Phật-đại-hải gần xa.
Như trong thế giới ta bà,
Pháp môn tam muội hiện ra cũng đồng.

Ngài Phổ Hiền hỏi cùng Đồng Tử :
‘Nầy thiện nam, thần lực thấy chăng?’
Liền thưa : ‘quảng đại thần thông,
Riêng Như Lai mới viên thông, tỏ tường.’

Lại dạy rằng : Thuở trong quá khứ,
Ta hằng cầu nhất-thiết-trí minh.
Trong vô lượng kiếp thực hành,
Kính thờ chư Phật, tịnh tâm Bồ Đề.

Khiến thế gian đều nghe, đều biết
Lập hội tràng bố thí gần xa.
Quốc độ, vương vị, thê noa,
Đến thân ta cũng mang ra cho người.

Vô lượng kiếp xuất gia, học đạo
Chuyên tịnh tu, hộ giáo, trì kinh.
Chưa từng khởi niệm chẳng lành,
Chưa từng nhàm mỏi tử sinh nặng nề.

Trong muôn kiếp hướng về Phật độ
Tâm đại bi cứu hộ chúng sanh.
Hộ trì chánh tạng giác minh,
Trong ngoài buông xả, trọng, khinh đều lìa.

Nhân duyên đó không chia dài, ngắn
Vì nhân duyên vô tận hư không.
Pháp ta vô tự, vô ngôn
Thí xả sở hữu cũng không thể cầu.

Pháp của ta, bửu châu đại trí
Vì chúng sanh, khai thị, xiển dương.
Vì người chỉ lối, đưa đường,
Niệm thường an lạc, tâm thường trì tu.

Hộ chánh pháp từ vô lượng kiếp
Sức thiện căn, chí nguyện, oai thần.
Ta được thanh tịnh Pháp Thân,
Sắc thân vô thượng, thế gian khó bì.

Nếu chúng sanh mê si căn tánh,
Hoặc Thanh Văn, Bồ Tát thiếu duyên,
Khó nghe danh hiệu Phổ Hiền
Huống chi là được thấy liền thân ta.

Nếu thấy, nghe hoặc là xúc chạm
Hoặc rước đưa, hoặc tạm dõi trông.
Thấy, nghe trong mộng cũng đồng
Được bất thối chuyển Chân Không, Bồ Đề.

Nếu chúng sanh trọn ngày nhớ nghĩ
Đến tên ta, liền thấy thuần tâm.
Thấy ta phóng đại quang âm,
Chấn động cõi Phật, sinh tâm lo, mừng.

Đều chứng được hạnh căn thuần thục
Được diệu công, bất thối chuyển tâm.
Như cõi tịnh, thân ta đồng,
Nếu ai nghe tiếng, sinh trong thân nầy.

Trong sắc thân, Thiện Tài liền thấy,
Cõi Phật hằng sát hải hiện ra.
Chư Phật, Bồ Tát trên tòa,
Mây giăng muôn sắc, chói lòa hư không.

Núi hùng vĩ dựng vòng tòa tháp,
Đức Như Lai thuyết pháp chuyển luân.
Quang minh hóa hiện Phật thân,
Hộ trì thế giới hướng tâm tu hành.

Thiện Tài thấy thân mình chẳng khác
Hòa nhập thân Bồ Tát thuyết kinh.
Thiện căn, trí tuệ, quang minh,
Tăng trưởng vô lượng, muôn nghìn lần hơn.

Mỗi lỗ lông trên thân Bồ Tát
Hiện hằng muôn Phật sát vi trần.
Như trong vô tận Chân Không,
Đi trong muôn kiếp cũng đồng sát-na .

Không gian chẳng gần, xa, còn, mất
Niệm niệm trong cùng khắp nhân gian.
Thuyết minh, giáo pháp, luận bàn
Đưa người đến chốn đạo tràng định tâm.

Thiện Tài thấy thân tâm sung mãn,
Cũng đồng như Bồ Tát Phổ Hiền
Đồng chánh giác, đồng pháp luân
Đồng hạnh nguyện hải, thần thông cũng đồng.

Lại dạy rằng : một lòng yên tịnh,
Dẹp não phiền, thức tỉnh tiếp thu.
Như Lai Đấng Đại Trượng Phu
Đại tâm, đại giác, điều nhu thế trần.

Đại quang minh phá tan si ám,
Khắp thế gian khó gặp, khó tin.
Giam thân ở chốn ngục tỳ,
Thấy cây linh-thoại đúng kỳ nở hoa.

Công đức Phật như nhà ảo thuật,
Thuyết diệu môn tùy thuận thế gian.
Tâm thanh tịnh như hư không,
Chưa từng khởi niệm biện phân dị, đồng.

Ngài Phổ Hiền nói xong thuyết kệ :
Như một giọt trong bể đức ân,
Phật trí rộng lớn vô ngần,
Biết tâm sanh chúng mấy tầng vọng, hư.

Trong một niệm rõ từng căn cội,
Vạn pháp trong tam thế chuyển lưu.
Ví như một đại ảo sư,
Hóa ra muôn vật cũng từ một tâm.

Khắp chúng sanh lòng không như nhất,
Cũng do từ trí, đức, nghiệp, duyên
Như Lai bổn tánh uyên nguyên,
Không lay, không động như nhiên giữa đời.

Đủ thiện hạnh, khắp nơi thấy Phật
Bỏ lòng nghi, tích đức chẳng sai.
Khởi tâm liền thấy Như Lai
Cùng trong một niệm, không-hai-thánh-phàm.

Hoặc khắp chốn, trong tam thế giới
Bồ Tát tu đầy đủ thiện duyên.
Vẹn toàn công hạnh Phổ Hiền,
Liền thấy chư Phật an nhiên tọa thiền.

Hoặc trong cõi huyền vi khó sánh,
Thấy Như Lai nghiêm tịnh báu thân.
Đức Tỳ Lô Tối Thắng Tôn,
Tựu thành chánh giác, ngự trên bửu tòa.

Hoặc thấy cõi Liên Hoa thắng diệu
Cùng thấy ngài Hiền Thủ Như Lai.
Thấy muôn Bồ Tát kinh hành,
Phổ Hiền đại nguyện, lập thành diệu môn.

Nhân phước duyên, thấy miền Cực Lạc
A-Di-Đà, cổ Phật quang minh.
Quán Âm, Thế Chí hai bên,
Là bậc quán-đãnh, vô biên hạnh từ.

Cõi Đại Thiên ví như Diệu Hỉ
Đại trang nghiêm, diệu trí, tịnh thanh.
Chúng Đại Bồ Tát vây quanh
Đức Phật A Súc tọa trên liên đài.

Viên Cảnh, Nguyệt-Giác-Danh-Xưng-Phật
Kim-Cang-Tràng Bồ Tát hiện thân.
Thấy Đức Nhật-Tạng Thế Tôn,
Thiện-Quang-Minh, chuyển pháp luân không ngừng.

Hoặc thấy Phật Kim-Cang-Đại-Diệm,
Ngài Trí-Tràng diễn thuyết pháp môn.
Đi trong cõi nước mười phương,
Vì người, dạy diệt ba đường độc sân.

Nhỏ như mỗi đầu lông cũng hiện,
Cõi trang nghiêm, thanh tịnh, uy phong.
Như Lai, Bồ Tát nhất tâm
Vì người giáo pháp, hiện trong vi trần.

Thấy vô biên, vô cùng nghiệp khởi,
Chẳng đồng nhau, cũng bởi do tâm.
Như Lai thuyết pháp, chuyển luân,
Trong cõi uế, tịnh, trụ thân Niết Bàn.

Hoặc sinh thân cung vàng, điện các
Đức Thích Ca chứng đắc Bồ Đề.
Trong vô lượng kiếp đi, về
Hóa thân Bồ Tát, gần kề chúng sanh.

Thích-Sư-Tử tịnh tu đạo hạnh,
Hoặc Thế Tôn chuyển đại thần thông.
Bát Nhã, lục diệu pháp môn,
Tùy tâm hóa hiện hằng muôn hạnh từ.

Vô lượng kiếp hành trì, tu tập
Bất-thối-tâm-Bồ-Tát hiện thân.
Thị hiện nhẫn nhục, trì tâm,
Hoặc hiện pháp thủy, tẩy trần chúng sanh.

Hoặc hóa hiện Phạm Thiên, Đế Thích,
Tứ Thiên vương, Sát-Lợi, Bà-La-Môn.
Sắc thân đoan chính, nghi dung,
Hoặc từ Đâu Suất Thiên Cung giáng thần.

Hoặc hóa hiện cung vàng thọ dục,
Hoặc thấy rời gác ngọc, xuất gia.
Bồ Đề Thọ. Ưu Đàm Hoa,
Tựu thành chánh giác nở ra Niết Bàn.

Tháp bảy báu, thế gian dựng tượng
Thấy Đấng Vô Lượng Thọ Như Lai.
Chư Bồ Tát dưới bửu đài,
Được Phật thọ ký, vị lai đắc thành.

Hoặc được thấy Phật Thanh-Tịnh-Nguyệt,
Trong cung ma hóa hiện thần thông.
Tự Tại, Hóa Lạc Thiên Cung,
Hoặc tại Đâu Suất, chuyển luân chỉ bày.

Thấy Chư Thiên đông đầy tán thán,
Dạ Ma Thiên, Đao Lợi, Long Thần.
Không nơi nào chẳng hiện thân,
Hoa rải trên Phật Nhiên Đăng cúng dường.

Hoặc thấy hiện Như Lai thọ lượng,
Trí Bồ Đề, thân tướng oai nghi.
Hiện thân sánh núi Tu Di,
An nhiên, tịch tịnh, tâm bi, huệ từ.

Trí huệ Phật như như, vô ngại
Tam thế duyên thức khởi không, thời.
Tâm hoán chuyển, cảnh đổi dời,
Đại Thiên, hạt bụi, cũng thời do tâm.

Thành thập lực, tứ vô úy đức
An trụ nơi Vô Thượng Đại Viên.
Đầy đủ trí huệ vô biên
Giảng bày thập-nhị-nhân-duyên cho người.

Mỗi ý nghĩa, ngôn từ, giáo thuyết,
Dùng biện tài khai triển tùy thời.
Mang tứ diệu đế dạy đời,
Khổ đau, huân tập, không rời thế gian.

Không ngã tướng, không sinh, không diệt,
Như hư không, đoạn tuyệt đường chim.
Thể tánh rỗng lặng, như nhiên
Thuyết ra chánh pháp, đất nghiêng, sông bồi.

Phật thuyết kinh, đất thời chấn động,
Vang diệu âm lồng lộng cung trời.
Tùy căn cơ dựng lập lời,
Khiến đều thấm nhập, rạng ngời trí minh.

Người chí kém, tử sinh nhàm mỏi,
Phật dạy người tam giải thoát môn.
Mong rời ba cõi trầm luân,
Dạy theo Độc Giác, nhân duyên là nguồn.

Người thanh tịnh, từ tâm, đại trí,
Phật dạy người giáo lý Nhất thừa.
Dùng phương tiện hạnh sớm trưa,
Dìu ra bể khổ, vượt bờ tử sinh.

Cõi Niết Bàn quang minh, diệu hạnh,
Như hư không, thể tánh không hai.
Gần, xa cũng tự chim bay,
Trí huệ sai khác, dở hay tự người.

Đà-la-ni nhập môn tam muội,
Một thanh âm vang cõi trời, người.
Lòng ai sâu thẳm, cạn vơi
Mà nghe ra khác những lời ngọc châu.

Thọ sanh thân bể dâu dời đổi,
Cùng chúng sanh chung cõi lậu thô.
Bíết rằng dục lạc vô bờ,
Cận kề, quán sát, tùy cơ diễn bày.

Cùng theo người, đắp y, cầm bát
Cạo tóc râu, thân khoác cà sa.
Cùng trong tăng chúng xuất gia,
Hiện thân gầy ốm như Bà-la-môn.

Tay chống gậy, tay luôn lần hạt,
Tâm đại từ, thuyết giảng, biện tài.
Khi ngồi, đứng chẳng động lay
Hiện thân khổ hạnh, không ngoài diệu tâm.

Hoặc tỏ rành thiên văn, toán số
Hoặc đùa vui, ngâm vịnh, luận bàn.
Hiện thân mão ngọc, lọng vàng,
Tướng, binh sau trước nối hàng cờ hoa.

Hoặc thị hiện quan tòa xử kiện,
Hoặc đại thần, phán quyết công minh.
Vào đời thọ tử, thọ sinh,
Không lưu dấu vết, tánh danh cùng người.

Hóa hiện thân khắp nơi Thiên quốc,
Khi hiện làm Túc Tán Tiểu Vương.
Hoặc Đại Đế Chuyển Luân Vương,
Chánh pháp rực sáng vương cung cõi trời.

Hoặc hiện thân ngự cung Đao Lợi,
Chuyển pháp luân, đầu đội thiên quang.
Hoặc là Hộ Thế bốn phương,
Hiện thân làm Tứ Thiên Vương trị vì.

Hoặc ngự cung Ma Ni bửu điện,
Hoặc Dạ Ma, Đâu Suất Thiên Cung.
Giảng bày giáo pháp chánh chân,
Hóa Lạc, Tự Tại, Ma vương khấu đầu.

Trời Phạm Thiên nhiếp thâu chúng hội,
Dạy định thiền, hỉ, xả, từ, bi.
Hiện thân qua lại, đến đi,
Không nơi an trụ, như mây giữa trời.

Hoặc hóa hiện thiên cung Sắc giới,
Dạy giác-phần, nở cội bửu hoa.
Thân vô biên tướng hiện ra,
Như ảnh, như mộng, trụ tòa Sắc, Không.

Như mặt nguyệt, hồ sông in bóng,
Hiện giữa trời, chẳng vọng khuyết tròn.
Thế gian tâm khởi mất, còn
Biết đâu vằng vặc ngọc hoàn thiên thu.

Như trí Phật không tăng, không giảm,
Chỉ dùng phương tiện tạm biện phân.
Biển tâm Bồ Tát trong ngần,
Hiện ra bóng Phật, Thanh Văn khó lường.

Như biển lớn, không lường, không lọc
Dung chứa muôn bảo ngọc, trân châu.
Chúng sanh bãi bể, nương dâu
Trụ trong thân Phật, ai đâu tỏ tường.

Phật quang sắc mười phương tỏ rạng,
Đâu từng rời chỗ cạn, nơi sâu.
Thái dương chiếu sáng địa cầu,
Đâu từng di động giữa bầu thái hư.

Thể tánh Phật chẳng không, chẳng có
Diệu Pháp Thân thanh tịnh Như Lai.
Vượt đường ngôn ngữ đúng, sai
Nhân, Thiên ba cõi, không ngoài sắc, không.

Vô sở trụ, Phật thân ảnh tượng,
Như hư không vẽ tướng chim bay.
Muôn màu đại hải ma ni,
Trụ thân vô tướng, đến, đi giữa đời.

Ví uống hết nước nơi bốn bể,
Ngọn gió kia cũng dễ che ngăn.
Hư không lường được lớp, tầng
Công đức Chư Phật vô ngần, vô biên.

Ai thấy nghe, kính tin Phật lực
Được diệu tâm, công đức Như Lai
Sinh tâm cẩn trọng, chớ nghi.

04 nhap phap gioi 04.avikinh hoa nghiem pho tho tu hoa

Người cầu đạo, tâm viên, ý mãn
Đến lầu nầy với quảng đại tâm.
Thanh tịnh trí, bất thối căn,
Cầu Thiện Tri Thức, tâm không mỏi nhàm.

Tịch tịnh nhãn, không lầm vạn pháp,
Dụng tâm từ độ khắp quần sanh.
Nơi công đức tạng viên thành
Hướng về Phật quả, hạnh lành chiếu soi.

Lìa mê hoặc, rạng ngời an lạc
Thịnh hay suy chẳng khác chi nhau.
Nhục không nhiễm, vinh chẳng cầu
Tâm vô phân biệt, điều nhu thuận hòa.

Người cầu đạo, dưới tòa hỏi đạo
Nhất tâm cầu y báo Như Lai.
Quá khứ, hiện tại, vị lai
Tam thế chư Phật hoằng khai hạnh từ.

Bồ Tát hạnh của chư Bồ Tát,
Diệu pháp môn giải thoát thọ trì.
Thiện Tri Thức, bậc lương y,
Ví như nhũ mẫu từ bi dẫn đường.

Như nhật nguyệt dặm trường soi sáng,
Như biển khơi, chẳng cạn, chẳng đầy.
Như núi sừng sững đêm ngày,
Dựng tràng chánh pháp rõ bày Phật ân.

Dẹp ác đạo hiển thân chư Phật,
Mở đường lành độ thoát trầm luân.
Giữ gìn chánh tạng pháp môn,
Kính tin, thờ phượng cội nguồn đức ân.

Trí thanh tịnh cùng thân đoan chánh,
Cầu sinh nhà đạo hạnh, tôn sư.
Phước duyên ngày trước có dư,
Trụ căn-bản-trí, đại từ phát tâm.

Bỏ của báu, chẳng gần quyến thuộc,
Dẹp mạn nghi, cầu được người hiền.
Xa lìa tâm ý đảo điên,
Dứt mầm sinh tử não phiền thế gian.

Thọ báo thân mười phương Phật độ,
Thấy chúng sanh bể khổ trầm luân.
Đọa thân ngũ thú xoay vần,
Cầu kim cang trí, khổ luân phá trừ.

Tâm chúng sanh ví như đất trống,
Không điều nhu gai độc mọc lên.
Si mê, trói buộc, não phiền,
Mất đường, quên lối, lạc miền u minh.

Vì chúng sanh, phát tâm bi trí,
Làm đạo sư, lập chí đưa đường.
Lái con thuyền đại pháp vương,
Vượt qua biển lửa sôi cuồng tham sân.

Chiếu cùng khắp như vầng nhật nguyệt,
Trụ trực tâm nơi biển trí minh.
Bồ Tát hạnh nguyện viên thành,
Xuất sanh pháp bửu quang minh rạng ngời.

Như rồng báu tuôn mưa dịu ngọt,
Đất tâm lành nẩy ngọn, kết chồi.
Cây trí huệ đã vun bồi,
Rễ sâu vững chãi, chẳng dời, chẳng lay.

Trong nhân, thiên khó nghe, khó thấy
Nhất tâm cầu chỉ dạy pháp âm.
Phá trừ kiến chấp mê lầm,
Mở trói sanh chúng, phát tâm Bồ Đề.

Diệt ác đạo quy về diệu hạnh,
Nhập niết bàn, xa lánh vọng tình.
Làm thầy ba cõi nhân, thiên
Gọi người tỉnh giấc thụy miên bùn lầy.

Trí dung chứa đủ đầy pháp vị,
Tâm tịnh thanh hoan hỉ thuần nhu.
Công đức pháp hạnh trì tu,
Thấy chư Phật hiện, công phu viên thành.

Đại công đức phát sinh thiện phẩm,
Sẽ giữ gìn Phật chủng nơi tâm.
Nghiêm tịnh Pháp chủng thậm thâm,
Hội họp Tăng chủng, diệu âm thuyết bày.

Đạt diệu trí, mở khai chánh pháp,
Trừ khổ luân, tam độc cho người.
Phá tan lưới chướng ngàn đời,
Kiến chấp, ái hữu bời bời dấy lên.

Chứa trí tuệ, vững nền quốc độ,
Chuyễn pháp luân, cứu khổ thiên, nhân.
Phóng quang khai mở thiên môn,
Mở cửa Phật đạo khắp chung bầu trời.

Cửa giải thoát khuyến mời sanh chúng,
Diệt đạo tà, khôi phục chánh tông.
Hoằng khai giáo pháp nhất tâm,
Tịnh tu công đức, dứt dòng tử sinh.

Thêm lớn rộng trí minh, diệu hạnh,
Cùng đủ đầy đại nguyện Như Lai.
Thần thông trí lực triển khai,
Chứa dung biển pháp rõ bày trong tâm.

Sẽ thấy được pháp vân chư Phật,
Sẽ vào trong thánh thất Như Lai.
Thần thông vô ngại biện tài,
Đi trong pháp giới, chim bay giữa trời.

Không dấu vết, không rời thanh tịnh
Như gió kia qua đỉnh non thần.
Không chướng ngại, không cấm ngăn,
Nhập khắp pháp giới, trụ thân Bồ Đề.

Diệu pháp môn, không mê, không chán
Tu hạnh lành Bồ Tát thuận tin.
Từ trong nhân thế thọ sinh,
Vô lượng phước báu tượng hình, trổ hoa.

Tâm chân chánh rời xa đường ác,
Đã vượt qua khổ hoạn nạn tai.
Đã rời trần cấu, chông gai
Trụ Bồ Tát địa, không-hai-thánh-phàm.

Hạnh Bồ Tát khắp cùng đại hải
Trí Như Lai vô ngại hư không.
Như người, hạnh nguyện cũng đồng,
Tâm hằng quyết định một lòng tiến tu.

Đại công hạnh của chư Bồ Tát
Vì chúng sanh hiện các pháp môn.
Chớ nghi hoặc, chớ tin lầm
Được nghe pháp vị, sanh tâm vui mừng.

Thành tựu hạnh tín, kiên, nguyện, lực
Tâm nguyện sanh công đức đủ đầy.
Như rồng báu bủa giăng mây,
Sẽ tuôn mưa lớn, đức dầy ân sâu.

Đại bi hạnh Phổ Hiền cùng khắp
Khéo thọ trì, tu tập chớ nghi.
Trong vô lượng kiếp đến, đi
Đắm mê dục lạc, thị phi của đời.

Lòng cầu đạo nên rời thân-chấp
Được thân người, gặp Phật, phát tâm.
Chẳng lâu, xả bỏ huyễn-thân,
Vãng sanh Phật độ, trụ thân đạo tràng.

Vì lợi ích khắp trong nhân thế
Dựng lập lời nguyện thệ giữa trời.
Nhất tâm cầu đạo cứu đời,
Phát tâm vô thượng, rạng ngời lòng son.

Lìa lửa ái thoát cơn hoạn nạn,
Gươm báu kia chẳng đoạn từ tâm.
Rời xa tham ố, độc sân
Vượt dòng hữu lậu, khói tan vọng tình.

Tâm Bồ Đề phát sinh nguyện hải,
Giữ gìn không hư hoại thiện căn.
Đại Quang Minh. Thủy Thanh Châu,
Vào nơi hố thẳm, biển sâu không sờn.

Mão Ma Ni sáng hơn thiên chúng,
Bồ Đề tâm diệu lực quang minh.
Lìa xa dục giới thế tình,
Bồ Tát đại trí, tịnh thanh khác thường.

Như ngọc báu người buôn tìm được,
Quang sắc kia biển lớn chứa dung.
Bồ Đề hạnh nguyện khôn cùng,
Thanh Văn, Duyên Giác chẳng chung hạnh từ.

Đại thệ nguyên ví như hoa nở,
Đại từ tâm khai mở giác minh.
Xuất sanh trí giác chúng sanh,
Tâm vô hạn lượng tựu thành diệu môn.

Như nến sáng mồi chung trăm ngọn,
Vô-tận-đăng không tổn mảy may.
Cây đàn đại hạnh làm dây,
Tấu lên pháp nhạc, âm bay cửa trời.

Chim hót tiếng diệu vời âm điệu,
Kim Sí kia, thần điểu hiện hình.
Trên đôi cánh rộng dặm nghìn,
Biển sâu, núi lớn thuận tình thong dong.

Bồ Đề Tâm dứt dòng phiền não,
Biển tử sinh, nghiệp báo viên dung.
Kim cang đại trí thần thông,
Phá trừ ma đạo, đại hùng, đại bi.

Trong tam thế đến đi, qua lại
Bồ Đề Tâm, đại hải phước ân.
Tựu thành diệu hạnh, diệu công
Như người gìn giữ mạng căn của mình.

Như Vương tử, thân sanh vương vị
Sánh các quan, luận nghị chẳng đồng.
Nối dòng cữu ngũ, chánh tông,
Nối dòng giống Phật, đi trong đại từ.

Bồ Đề Tâm phá trừ tà kiến,
Như kim cang tinh luyện trung kiên.
Như Kim-cang-tạng Đại Thiên,
Tựu thành chánh giác, dẹp yên ma đồ.

Bồ Đề Tâm vô biên công đức,
Nầy thiện nam, muốn được rõ ràng,
Vào trong lâu các đạo tràng,
Học Bồ Tát hạnh Đại-Trang-Nghiêm nầy.

Búng ngón tay, lâu đài mở cửa,
Liền bước vào thánh địa trang nghiêm.
Vô số bửu ngọc, chân kim
Đèn giăng trướng gấm, lụa tiên kết màn.

Chim hót tiếng thuần khoan, hòa nhã,
Hồ đầy sen cũng đã trổ hoa.
Tượng Bồ Tát ngự trên tòa,
Ma Ni bửu tạng chói lòa quang minh.

Lại thấy có trăm nghìn lâu các
Cùng trang nghiêm, chẳng tạp loạn nhau.
Thân tâm hớn hở, thuần nhu
Nhiếp thọ vọng tưởng, công phu định thần.

Thấy cùng khắp, dụng tâm cùng khắp
Nương oai thần Bồ Tát, nhận ra
Thân mình ở trước bửu tòa,
Chứng nhập cảnh giới, hằng sa vi trần.

Thấy Bồ Tát phát tâm tiền kiếp,
Cùng họ tên, hạnh nghiệp, mạng căn.
Tu hành đền đáp tứ ân,
Chư Phật tại thế hiện thân hóa hoằng.

Lại thấy được kim thân Di Lặc,
Từ tối sơ chứng đắc từ tâm.
Thành tựu lục độ thậm thâm,
Hiệu là Từ-Thị, pháp âm viên thành.

Thấy chứng đắc Vô-Sanh-Pháp-Nhẫn,
An trụ Bồ Tát địa hoằng dương.
Lại thấy làm Chuyển Luân Vương,
Dạy khuyên thập thiện, dựa nương Bồ Đề.

Thấy Bồ Tát trừ mê, khuyến thiện,
Nơi hạnh từ, hóa hiện Thiên Vương.
Cõi trời thị hiện dẩn đường,
Vì chư thiên chúng, xiển dương, thuyết trình.

Thấy Bồ Tát thọ sinh địa ngục,
Trong súc sanh điều phục chúng ma.
Cứu ngạ quỷ, độ A tu la
Diễn bày Phật pháp, độ tha khắp cùng.

Thấy Bồ Tát tán dương công đức,
Sơ phát tâm đến bực viên thông.
Lục độ tam muội thần thông
Nhẫn, từ, hạnh nguyện dùng phương tiện lành.

Trăm ngàn năm kinh hành, đọc tụng
Dùng thơ văn giảng luận nghĩa kinh.
Thuyết pháp cứu độ nhân, thiên
Hoặc nhập tam muội, tứ thiền, định tâm.

Lại thấy cả ức muôn thế giới,
Đại Thiên Cung, Đâu Suất Thiên Cung.
Di-Lặc Bồ Tát giáng thần,
Kinh hành bảy bước, thọ thân điện vàng.

Thấy xuất gia, đạo tràng tỉnh tọa
Quán sát Bồ Đề thọ, chuyển luân.
Thuyết pháp hàng phục ma quân,
Thành Đẳng Chánh Giác, trụ thân đại từ.

Nghe tất cả lưới, linh, nhạc khí
Diễn pháp âm khó nghĩ, khó lường.
Nghe Bồ Tát thọ diệu môn,
Tu hành, bố thí, cúng dường huyễn-thân.

Nghe Bồ Tát chuyển luân, xây tháp
Dựng tượng hình, thổi đại pháp loa.
Thấy chư Bồ Tát hằng sa,
Ba thời sám hối, pháp tòa phát tâm.

Thiện nam tử ! Từ tam muội dậy,
Dụng trí minh, hãy thấy nhân duyên,
Tự tánh vạn pháp tượng hình,
Như mộng, như ảnh, chẳng thành tựu lâu.

Nhập cảnh giới ba đời không mất
Giải thoát môn Bồ-Tát-Nhất-Sanh.
Trí huệ, thần lực, quang minh
Là nơi an trụ, không sinh, không lìa.

Như Long Vương làm mưa tuôn khắp,
Chẳng do nơi tích tập mà thành.
Chẳng thân, tâm khởi dấy lên
Do sức tâm niệm, cơ duyên chín mùi.

Đại lâu các, trong ngoài chẳng phải
Mà cũng không chẳng thấy, chẳng nghe.
Do nơi thần lực Như Lai,
Thiện căn tụ tích, đại tài ảo sư.

Do ảo lực, thấy như hiện tướng,
Không từ đâu định hướng đến đâu.
Do nơi huyễn trí vô cầu,
Do sức đại nguyện thâm sâu hiển bày.

Chư Bồ Tát không đi, không lại
Không chỗ nơi, chẳng khởi, chẳng sanh.
Vì muốn điều phục chúng sanh,
Từ đại bi đến, quang minh huyễn bày.

Do đại nguyện, đại từ thanh tịnh
Tùy thuận theo sở thích thọ sanh.
Dụng thần thông hiện thân hình,
Khắp nơi, khắp chốn mặc tình đến đi.

Không thủ, xả, chỉ tùy phương tiện
Như ảnh kia, hóa hiện thực, hư
Có mười sanh-xứ đại từ
Bồ Tát an trụ Chân Như tu hành.

Như phụ thân hiện hành thiện xảo,
Lục độ là từ mẫu sinh ra,
Bồ Đề Tâm gọi là nhà,
Đại thừa khuyến phát, nối gia-nghiệp lành.

Chư Bồ Tát siêu phàm phu địa
Hội nhập Bồ tát vị trụ tâm.
Giữ gìn chủng tánh viên dung,
Thế gian, thiên chúng khắp cùng ngợi khen.

Đại Bồ Tát chẳng ưa, chẳng ghét
Rõ thế trần không khác tượng hình.
Tâm không đắm nhiễm vọng tình,
Biết pháp vô ngã, chúng sanh chẳng đồng.

Biết sinh tử khác gì ảo mộng,
Thọ huyễn-thân chẳng động, chẳng lay.
Đại từ dạy dỗ, chỉ bày
Tâm không lưu ngại, trong ngoài viên thông.

Đồng dáng vóc, cũng đồng tên gọi
Thọ sinh thân trong mọi chủng loài.
Đưa về chủng tánh Như Lai
Giáo hóa, điều phục, mở khai tùy thời.

Dạy nhân gian xa rời dục lạc
Dạy chư thiên thịnh đạt, suy vong.
Đại trí vi diệu pháp môn
Thọ sinh Đâu Suất Thiên Cung hóa hoằng.

Hãy đến chỗ Văn Thù Sư Lợi
Học hạnh môn quảng đại Phổ Hiền.
Được hằng chư Phật ngợi khen
Làm thầy Bồ Tát, hạnh nguyền vô biên.

Sẽ vì người dạy khuyên, diễn đạt
Những pháp môn Bồ Tát hành trì.
Hiện ra hạnh bất tư nghì,
Tất cả công đức, đại bi chẳng rời.

Cũng từ nơi Văn Thù Sư Lợi
Được thấy, nghe, phát khởi thiện tâm.
Thiện Tài hữu nhiễu trăm vòng,
Ân cần từ tạ, một lòng khắc ghi.

Y lời dạy của ngài Di-Lặc
Hơn trăm thành đến nước Phổ Môn.
Văn-Thù-Sư-Lợi tuyên dương,
Tín căn thiện trụ, mở đường tiến tu.

Khiến đầy đủ quang minh đại trí
Khiến được vô biên tế đà-la-ni
Vô biên tam muội tổng trì,
Thần thông diệu dụng, trí, bi đủ đầy.

Chánh tư duy, Thiện Tài quán sát
Nguyện thấy được Bồ Tát hiện thân.
Đại Thiên thế giới vi trần
Cùng là cảnh giới tự thân Phổ Hiền.

Liền ở trước Bửu Liên Hoa tạng,
Khởi đại tâm vô hạn hư không.
Được sức gia hộ thần thông
Thiện căn tụ tích, tâm đồng hiện ra.

Liền thấy được hằng sa Phật quốc,
Thấy Như Lai chứng nhập diệu môn.
Phật Độ thanh tịnh mười phương,
Chúng sanh hòa ái, tâm thường niệm tâm.

Lại thấy được khắp trong thế giới
Xuất sanh từ mỗi mỗi vi trần.
Phật quang minh võng, luân-vân,
Cùng Phật-sắc-tượng-bửu-vân hợp thành.

Như lưới mây kết tinh quang diệm
Hạnh Phổ Hiền ngát diệu-hương-vân.
Đại công đức hải sáng ngần
Tinh tú, nhật nguyệt, vi trần vô biên.

Lại thấy sắc-tượng-vân diệu biến
Phật quang minh hiện chúng sanh thân.
Phật-sắc-tượng-ma-ni-vân,
Từ trong vô số vi trần phóng quang.

Số vi trần như thân Bồ Tát,
Độ chúng sanh viên mãn sở cầu.
Như Lai thân, lưới bảo châu
Phát đại thệ nguyện khắp bầu thái hư.